Review Title
Summary
Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipisicing elit. Nemo enim ipsam voluptatem quia voluptas sit aspernatur aut odit aut fugit. Accusantium doloremque laudantium, totam rem aperiam, eaque ipsa quae ab illo. Ut aut reiciendis voluptatibus maiores alias consequatur aut perferendis doloribus asperiores repellat. Et harum quidem rerum facilis est et expedita distinctio.
User Review
( votes)- Tên gọi :
Táo tàu, táo đỏ, táo đen, Can táo, Mỹ táo, Lương táo, Can xích táo, Quế táo, Khư táo, Táo cao, Đơn táo, Táo bộ, Đường táo, Tử táo, Quán táo, Nhẫm táo, Đê tao, Ngưu đầu, Táo du, Dương giác, Quyết tiết, Cẩu nha, Kê tâm, Thiên chưng táo, Lộc lô,…
- Tên khoa học: Zizyphus jujuba Mill.
- Thuộc họ : Táo (Rhamnaceae).
- Tính vị: Vị ngọt, tính ấm (theo Trung Dược Đại Từ Điển).
Vị ngọt, tính bình (theo Bản Kinh)
Vị ngọt, tính ẩm (theo Trung Dược học).
Vị ngọt, cay, nóng, không độc (theo Thiên Kim Phương – Thực trị).
- Quy kinh :
kinh Tỳ và Thận (Trung Dược Học).
Kinh phế, tâm (theo Bản Thảo Hối Ngôn).
kinh Tỳ, Vị (Trung Quốc Đại Từ Điển).
Kinh Can, Tỳ, Thận (theo Dược Phẩm Hóa Nghĩa).
kinh Tỳ, Vị (Bản Thảo Kinh Sơ).
Kinh tỳ, phần huyết (theo Bản Thảo Cương Mục).
- Chủ trị :
Trị Tỳ hư, ăn ít, tiêu lỏng, khí huyết tân dịch bất túc,, doanh vệ không điều hòa,hồi hộp, phụ nữ tạng táo (Trung Quốc Đại Từ Điển). Trị Tỳ vị hư nhược, hư tổn, suy nhược, kiết lỵ, vinh vệ bất hòa (Trung Dược Học).
- Phân bố chủ yếu:
Cây phân bố chủ yếu ở miền bắc Trung Quốc, vị thuốc có nhiều nhất ở các tỉnh Phúc Kiến, Sơn Đông, Hà Nam, Hà Bắc, Tứ Xuyên , thông thường tháng 4 – 6 ra hoa, tháng 7 – 8 kết quả.
- Thu hái, sơ chế:
Hồng táo: Khi quả chín, đem phơi hay sấy khô. Quả táo màu hồng được gọi là hồng táo.
Hắc táo: táo được thu hái sau khi chín vàng thì để hơi nhăn, đem quay trong thùng có gai để châm lỗ rồi sắc với rễ con, thân lá cây địa hoàng, cô thêm ít đường rồi đem phơi khô cho đến khi không còn cảm giác dính tay. Loại này có vị ngọt hơn so với hồng táo.
- Bảo quản:
Nơi khô ráo, thoáng mát, tránh ánh sáng trực tiếp hoặc nơi ẩm mốc.
- Kiêng kỵ:
+ Trái xanh ăn không tốt, không nên ăn nhiều. Ăn táo với hành làm ngũ tạng bất hòa, ăn với cá làm đau bụng, đau thắt lưng (Danh Y Biệt Lục).
+ Ăn nhiều trái Táo chưa chínsẽ bị nhiệt khát, khí trướng (Thiên Kim Phương – Thực Trị).
+ Vùng dưới ngực có bỉ khối, đầy trướng, nôn mửa: không dùng (Y Học Nhập Môn).
+ Trẻ nhỏ bị cam tích, bụng đầy trướng, đờm nhiệt, răng đau: Cấm dùng (Bản Thảo Kinh Sơ).
+ Dạ dày đau do khí bế, trẻ nhỏ bị nhiệt cam, bụng to, đau bụng do giun: không dùng (Bản Thảo Hối Ngôn).
+ Đang uống Nguyên sâm, Bạch vi, không được dùng Đại táo (Bản Thảo Tỉnh Thường).
+ Trẻ nhỏ, sản hậu, sau khi bị bệnh ôn nhiệt, thử thấp, hoàng đản, cam tích, đờm trệ: không nên dùng (Tùy Tức Cư Ẩm Thực Phổ).
- Lưu ý :
Trong quá trình dùng đại táo khắc phục một số vấn đề về sức khỏe, cần lưu ý một số vấn đề sau đây:
Không dùng quá liều.
Không dùng đại táo đồng thời với vị thuốc Bạch vi, nguyên sâm.
- Cách dùng: 3 – 12 quả/ ngày. Liều dùng có thể tự điều chỉnh tùy theo bệnh lý và từng đối tượng. Dùng ở dạng sắc hoặc tán thành bột mịn để sử dụng. Có thể sử dụng độc vị đại táo hoặc kết hợp cùng với nhiều loại dược liệu khác tùy vào từng bệnh lý.
- Một số bài thuốc dùng đến đại táo:
- Bài thuốc từ đại táo giúp điều hòa vị khí
Đại táo liều đủ dùng phơi khô và tách bỏ phần hột cứng. Sau đó đem sấy khô rồi tán thành bột mịn. Quyện thêm một ít bột gừng sống. Mỗi lần sử dụng một ít để điều hòa vị khí.
- Bài thuốc từ đại táo trị táo bón
2 quả đại táo (bỏ phần hạt), 2 gram khinh phấn. Lấy khăn giấy gói kinh phấn đã được chuẩn bị rồi đem nướng chín, sau đó lấy nước sắc đại táo để uống.
- Bài thuốc từ đại tạo chữa mất ngủ do bồn chồn.
16 quả đại táo và 8 củ hành trắng, đem hai nguyên liệu trên nấu cùng với 3 chén nước, tiến hành sắc cho đến khi lượng nước cô đặc lại còn khoảng 1 chén, dùng khi còn nóng.
- Bài thuốc từ đại táo trị lở loét lâu ngày không tự lành
9 – 12 quả đại táo, sắc cùng với một lượng nước vừa đủ rồi dùng phần nước vừa sắc được để rửa vùng da bị lở loét, thực hiện mỗi ngày 2 lần để đạt được kết quả như mong đợi.
Contrary to popular belief, Lorem Ipsum is not simply random text. It has roots in a piece of classical Latin literature from 45 BC, making it over 2000 years old.
The first line of Lorem Ipsum, “Lorem ipsum dolor sit amet..”, comes from a line in section 1.10.32.
Richard McClintock, a Latin professor at Hampden-Sydney College in Virginia, looked up one of the more obscure Latin words, consectetur, from a Lorem Ipsum passage, and going through the cites of the word in classical literature, discovered the undoubtable source.
Lorem Ipsum comes from sections 1.10.32 and 1.10.33 of “de Finibus Bonorum et Malorum” (The Extremes of Good and Evil) by Cicero, written in 45 BC.
Author comment test. Lorem Ipsum comes from sections 1.10.32 and 1.10.33 of “de Finibus Bonorum et Malorum” (The Extremes of Good and Evil) by Cicero, written in 45 BC.